Võ thuật Việt Nam (p2)

Đặc điểm

Bên cạnh những nét tương đồng với nền võ thuật rộng lớn của Trung Hoa. Do ảnh hưởng từ giao lưu văn hóa trong lịch sử, các võ phái Việt Nam đặc biệt là các hệ phái võ thuật cổ truyền vẫn thể hiện những đặc điểm khác biệt rõ rệt với các nền võ học khác trên thế giới nói chung và Trung Hoa nói riêng:

Lời thiệu của các bài quyền, bài binh khí thường làm bằng thơ, phú có vần điệu. Đặc biệt có nhiều bài thơ Nôm, khác hẳn với các võ phái Trung Hoa hoặc không có lời thiệu, hoặc lời thiệu. Chỉ là sự liệt kê thứ tự chiêu thức một cách rời rạc.

học muay thái ở tphcm,học võ ở tp hcm, lớp học võ cho người lớn tuổi, học kick boxing ở tphcm, địa điểm học kick boxing ở tphcm

Bộ pháp:

Vận hành theo đồ hình bát quái. Với nguyên lý “lưỡng túc bát quái vi căn” (hai chân lấy bát quái làm nền tảng). Khi đứng thì vững như đá tảng, khi di chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt như lá bay.

Cước pháp:

Nổi tiếng với rất nhiều đòn độc cước. Trong đó có những đòn đá chớp nhoáng tấn công ở tầm trung đẳng trở xuống. Ít có những đòn đá ở tầm thượng đẳng hoặc những đòn đá bay thiên về biểu diễn.

Thủ pháp:

Áp dụng theo ngũ hành pháp với nguyên lý “song thủ ngũ hành vi bản” (hai tay lấy ngũ hành làm nền tảng).

Kỹ thuật:

Các đòn thế được chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách đánh của từng dạng đối tượng, địa hình . Có thể đánh trên lưng ngựa, voi, cọc gỗ, thành giếng. Nhất là lối đánh cận chiến một người chống lại nhiều người. Rất ít có các kỹ thuật thiên về màu mè hoa dạng mà mang tính thực dụng cao độ.

Tận dụng triệt để lối đánh “cộng lực”.

Dựa vào sức lực đối phương để triệt hạt đối phương theo nguyên lý “tá lực đả lực”. Lấy nghịch để chế thuận.

Binh khí: các võ phái Việt Nam truyền thống nổi tiếng với nhiều loại binh khí được chế tác từ các dụng cụ thô sơ trong nghề nông. Như Thiết lĩnh, một dạng tương tự côn nhị khúc. Bút chì (vũ khí) chế từ chiếc xẻng có buộc thêm dây dài vào cán để phóng. Tề mi côn làm bằng tre, tầm vông còn gọi là roi chiến. Đặc biệt tề mi côn với những kỹ thuật độc đáo như thế “đâm so đũa”. Một tuyệt kỹ bí truyền chưa có cách hóa giải. Các võ phái tại Bình Định còn thường xuyên phổ dụng môn binh khí là dải lụa được buộc vật nặng ở đầu. Một vũ khí mềm hơn nhuyễn tiên của Trung Hoa. Nhưng không kém phần uy lực thuộc thập bát ban võ nghệ Việt Nam.

Các hệ phái chính

Các hệ phái võ thuật cổ truyền ở Việt Nam đa dạng nhưng có thể xếp vào 5 nhóm chính: Nhóm Bắc Hà (miền Bắc). Nhóm Bình Định (miền Trung). Nhóm Nam Bộ (miền Nam). Các môn phái có nguồn gốc từ Trung Quốc đến Việt Nam (như các hệ phái danh gia Thiếu Lâm). Nngoài ra, còn có thể kể đến các võ phái Việt Nam phát triển ở nước ngoài.

Nhóm Bắc Hà

Các phái võ Bắc Hà ban đầu đều phát triển ở miền Bắc Việt Nam dù có võ phái sau đó đã ảnh hưởng lan rộng đến các khu vực khác trong cả nước. Các phái này bao gồm:

Vật Liễu Đôi:

Võ vật có truyền thống lâu đời và rất phổ biến tại miền Bắc Việt Nam. Nhiều làng tổ chức thi đấu vật vào các lễ hội mùa xuân. Lễ hội Vật Liễu Đôi tổ chức thường niên ở làng Liễu Đôi, xã Liêm Túc, huyện Thanh Liêm, Hà Nam.

Nhất Nam:

Có lịch sử lâu đời nhất trong các võ phái cổ truyền Việt Nam. Có khởi nguồn từ Thanh Hóa, Nghệ An. Ông tổ của môn vật truyền thống Việt Nam, Nguyễn Tam Chinh, sinh ra tại vùng này. Đây cũng là vùng đất địa linh nhân kiệt sản sinh nhiều danh tướng Việt Nam lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại xâm như Bà Triệu (225-248), Dương Đình Nghệ (?-938), Lê Lợi v.v. Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược, nhà Trần chủ yếu dựa vào mười vạn binh sĩ từ các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An.

Nam Hồng Sơn:

Do võ sư Nguyễn Văn Tộ sáng lập dựa trên cơ sở chương trình rèn luyện võ cổ truyền dân tộc từ thời Nguyễn và vay mượn thêm một số kỹ thuật của võ Trung Hoa.

Việt Võ đạo (Vovinam):

Vovinam Việt Võ Đạo là môn võ được võ sư Nguyễn Lộc sáng lập vào năm 1938.

Đây là hệ thống pha trộn võ học gia đình. Võ Việt Nam và các trường phái võ các nước khác như Judo, Karate… Võ phái dựa trên kỹ thuật phản công ngang, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.

Hà Nội và vùng phụ cận được xem là cái nôi của võ cổ truyền. Trước đây nhiều võ sinh khu vực này đã vượt qua nhiều cuộc khảo thí võ rất gian nan do triều đình phong kiến tổ chức tại Giảng Võ đường. Sau năm 1880 khi mà thi võ bị triều đình bãi bỏ. Nhiều võ gia vẫn tiếp tục bí truyền các kỹ năng lại cho con cháu.

Nhóm Bình Định

Bình Định là vùng từng thuộc vương quốc Chămpa, nơi có truyền thống võ thuật lâu đời mà những phù điêu của vương quốc Chăm còn lưu giữ hình ảnh. Đây cũng là cái nôi võ thuật miền Trung gắn liền với triều đại Tây Sơn (1778-1802). Trong thế kỷ 18, một số võ sư nổi tiếng từ miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc chuyển đến định cư tại vùng này và dạy võ cho người dân địa phương.

Trong số này có Trương Văn Hiến (vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh). Trần Kim Hùng (có tổ tiên sáng lập thôn Trường Đình, Tây Sơn). Diệp Kim Tòng (từ Phúc Kiến), Đinh Văn Nhưng (người Ninh Bình). Những võ sư này đã rèn luyện võ nghệ cho anh em nhà Tây Sơn và hầu hết các tướng sĩ của cuộc khởi nghĩa.

Từ cuối thế kỷ 18 các võ sư đã gây dựng tại Bình Định phái võ Tây Sơn (còn gọi là Võ trận Tây Sơn) độc đáo.  Kết hợp của nhiều hình thức và kỹ thuật từ những võ phái Bình Định khác nhau.

Nguyên tắc của võ phái này là: “nhất mạnh, nhì nhanh, thứ ba giỏi”.

Nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sức mạnh, sự khéo léo, và kỹ thuật có uy lực thực dụng. Tuy nhiên, cùng với sự suy vi của dòng họ Tây Sơn. Nhiều kỹ thuật của phái võ trận này chỉ còn được truyền dạy trong các chi phái võ của các gia tộc tại Bình Định.

Từ thời Tây Sơn đến nay, nhóm Bình Định bao gồm nhiều võ phái xuất phát từ Bình Định và vùng phụ cận. Như: roi Thuận Truyền, quyền An Thái, quyền An Vinh. Các hình thức võ thuật do các gia tộc, các nhà sư truyền dạy như Tây Sơn Nhạn, Thanh Long võ đạo, Bình Định Sa Long Cương, Võ trận Bình Định, Tân Sơn Bạch Long, Tây Sơn Thiếu Lâm, Bình Định gia, Tiên Long Quyền Đạo, v.v.

Nhiều bài danh quyền có xuất xứ từ đất Bình Định.

Như Ngọc trản ngân đài, Lão mai quyền, Thần đồng quyền, Yến phi quyền (còn được gọi là Én Bay thảo pháp). Được đưa vào chương trình khảo thí võ thuật thời Nguyễn. Một số bài trở thành bài quy định của Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam.

Điều cần nói ở đây là, tên gọi “Võ Bình Định” nguyên khởi xuất hiện vào thế kỷ thứ 15. Do Nguyễn Trãi đặt và được truyền nối rồi ngộ nhận là môn võ xuất phát từ vùng Bình Định vào thời Tây Sơn.

Theo cách lý giải của tủ sách Tìm hiểu Võ thuật. Sau cuộc khởi nghĩa thành công, Lê Lợi đặc biệt lưu tâm đến việc trui rèn võ nghệ cho quân đội. Cho mở các kỳ thi võ và mở trường dạy võ. Nhà vua ủy thác cho nhà sư Sa Viên là người huấn luyện võ nghệ cho nghĩa binh Lam Sơn từ năm 1415 mở võ đường. Nguyễn Trãi đã đặt tên cho võ đường của nhà sư Sa Viên là Võ đường Bình Định để tưởng nhớ công lao của Bình Định Vương Lê Lợi. Từ đó tên Võ Bình Định được truyền nối khắp nước.

Nhóm Nam Bộ

Các phái võ Nam Bộ xuất hiện cùng với quá trình mở cõi.  “Từ thuở mang gươm đi mở cõi, Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” (thơ Huỳnh Văn Nghệ). Và định cư của người Việt trong thế kỷ 18 và thế kỷ 19. Sau khi dứng chân ở Nam Trung Bộ, các chúa Nguyễn tiếp tục mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam và di dân từ Quảng Nam, Đà Nẵng, Quy Nhơn vào khai khẩn đất hoang tại đồng bằng sông Cửu Long. Song song với điều đó, triều Nguyễn cũng lưu đày nhiều tội phạm vào Nam.

Vì vậy, nhiều người Việt ở miền Nam xuất thân từ các vùng có truyền thống võ nghệ. Lại giành giật sự sống trong cuộc chiến sinh tử với vùng quê mới còn hoang dã, nên hầu hết trong số họ rất thành thạo nghệ thuật chiến đấu.

Từ cuối thế kỷ 18, bị bại trận trước quân khởi nghĩa Tây Sơn.

Tàn quân nhà Nguyễn bỏ chạy xuống phía Nam quy tụ về Đồng Nai tiếp tục tuyển mộ các võ sư để rèn binh luyện khí. Sau khi nhà Nguyễn được thành lập năm 1802. Nhiều người vùng này đã vượt qua các kỳ thi võ của triều đình. Theo đuổi binh nghiệp và trở thành nhiều võ tướng.

Một số hoàng thân quốc thích nhà Tây Sơn, để trốn tránh sự truy nã trả thù của Gia Long, cũng lưu lạc tới miền Nam. Mang theo sở học của bản thân và âm thầm truyền dạy trong các gia tộc. Hình thành nên nhiều võ phái nổi tiếng.

Xuất thân đa dạng của người Việt trong Nam đã tạo nên những hệ thống võ thuật Nam Bộ có nguồn gốc rất phong phú.

Pha trộn từ các nhóm Bình Định, Thanh Hóa, Nghệ An, đồng bằng sông Hồng và cả những võ phái có xuất xứ từ Trung Quốc. Sự pha trộn nhiều môn loại với kỹ thuật được cải biến cho phù hợp với điều kiện cụ thể ở miền Nam. Trong đó có nhu cầu tự vệ trước thú dữ và khai khẩn đất canh tác mới. Đã tạo nên phái Nam Bộ đặc biệt với những võ phái được gọi là “võ miệt rừng” hay “võ miệt vườn”. Nổi danh như Tân Khánh Bà Trà, Thất Sơn quyền của các nhà sư, Âm dương võ phái và phái Kim Kê.

Nhiều võ sư ở miền Nam nổi danh được ví với “tam nhật” (ba mặt trời)

Hàn Bái, Bá Cát và Bảy Mùa; “tam nguyệt” (ba mặt trăng) Trương Thanh Đăng, Quách Văn Kế và Vũ Bá Oai; “tứ tú” (bốn vì sao) với Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh.

Nhiều võ sĩ miền Nam đã tham gia thượng đài với rất nhiều lần toàn thắng trước các võ sư đến từ những quốc gia lân bang như Cao Miên, Lào, Xiêm. Trước năm 1975, ở miền Nam cũng đã có Tổng cuộc Quyền thuật Việt Nam của Tổng nha Thanh niên trực thuộc Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên.

Các võ phái có nguồn gốc Trung Hoa

Sự giao lưu, ảnh hưởng lâu đời từ Trung Hoa trong suốt trường kỳ lịch sử đã tạo nên ở Việt Nam những hệ phái võ thuật do các võ sư Trung Quốc hoặc võ sư Việt giảng dạy. Đó có thể là hệ thống được chân truyền nguyên bản từ phương Bắc. Và cũng có thể là các hệ phái đã hỗn dung với kỹ thuật bản địa. Nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi có gắn với võ thuật Trung Hoa.

Tuy nhiên, có một đặc điểm chung nhất cho các võ phái có nguồn gốc Trung Hoa hiện đang được giảng dạy tại Việt Nam:

  • Hầu hết là những hệ thống đã ít nhiều cải biên cho phù hợp với thể chất và văn hóa của người Việt.
  • Danh sách không đầy đủ các võ phái có nguồn gốc Trung Hoa trên lãnh thổ Việt Nam gồm: Bắc Mã Sơn, Lâm Sơn Động, Phật gia quyền, Không Động, Vĩnh Xuân Quyền (Việt Nam), Thiếu Sơn Phật Gia, Thiếu Lâm Long Phi, Thiếu Lâm Bắc Truyền Thiên Mục Sơn, Thiếu Lâm Nội Gia Quyền, Thiếu Lâm Bắc Phái Mai Hãn, Thiếu Lâm Tự (võ), Thiếu Lâm Sơn Đông. Và các võ phái như Võ Đang phái, Nga Mi phái v.v.

Võ thuật Việt Nam ở nước ngoài

Theo bước chân của người Việt đến khắp thế giới. Rrất nhiều kỹ thuật võ Việt Nam đã đến với nước ngoài. Đặc biệt là các nước phương Tây như Pháp và một số nước châu Âu, Mỹ, Canada. Có đến 22 môn phái võ thuật có cội nguồn từ Võ thuật Việt Nam tại Pháp. Và có đến 30.000 võ sinh theo học. Dưới đây liệt kê một số võ phái tại Pháp, một nước có thể coi là “cái nôi của võ thuật Việt Nam tại nước ngoài”:

Phái Cửu Long: do võ sư Trần Hoài Ngọc thành lập năm 1954 ở Việt Nam. Khi ông di cư sang Pháp có phát triển môn phái này tại Loire Atlantiques và Côte d’Azur.

Phái Nam Hổ Quyền: do võ sư Phillipe Đặng Văn Sung chấp chưởng. Đây là một chi phái của Bình Định gia, hiện phát triển tại Nice.

Phái Trung Hòa:

  • Nguyễn Trung Hòa là một trong những võ sư sáng lập Liên đoàn Võ thuật Việt Nam tại Pháp. Phái Trung Hòa do võ sư Jean Quý, đệ tử của Nguyễn Trung Hòa sáng lập sau khi sư phụ qua đời, hiện phát triển chủ yếu tại Paris.

Vo Thuat: Phong trào Vo Thuat do Võ sư Nguyễn Văn Trung thành lập tại Montpellier năm 1967, tại Grenoble năm 1970 và vùng Paris Ile de France năm 1977. Võ sư Nguyễn Văn Trung là đệ tử của nhiều cựu võ sư ẩn sĩ của Việt Nam (tại Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hải Dương, Bà Rịa Vũng Tàu, Sài Gòn Phú Nhuận, Marseille, Montpellier, Gap, Grenoble và Paris). Quê của ông nội ở Huế (làng Bao La), quê của mẫu thân và phụ thân ở Bắc Ninh. Võ sư sinh ra ở phố Tiền An tỉnh Bắc Ninh năm 1948.

Phái Thanh Long do võ sư Francis Fournie thành lập tại Toulouse. Bài tập là các phương pháp nội gia, ngoại gia, các loại vũ khí truyền thống Việt Nam.

Sơn Lâm Hắc Hổ:

Phái võ do cố võ sư Vũ Ngọc Vinh thành lập, hiện do Frederic Vũ, con trai võ sư Vinh làm chưởng môn giảng dạy tại Paris.

Trường phái Cây Lau: Cũng xuất xứ từ cố võ sư Nguyễn Trung Hòa như phái Trung Hòa. Nguyễn Trung Hòa bắt đầu dạy tại Pháp năm 1948. Khi ông qua đời năm 1975. Cháu họ ông là Bernard Võ Đình Quang phát triển võ phái tại Paris.

Phái Lam Sơn: phát triển tại vùng Montpellier, đại võ sư của môn phái là Jacques Trần Văn Ba.

Trường phái Song Long Khiên do Francois Brassecasse sáng lập và giảng dạy tại Nevers. Kỹ thuật đào tạo bao gồm cả nội gia và ngoại gia.

Sơn Long Quyền Thuật hay Võ-Vietnam do võ sư Nguyễn Đức Mộc giới thiệu vào Pháp năm 1950 và phát triển đến nay.

Phái Tây Sơn: xuất từ từ Phái Tây Sơn trong nước, hiện nay do võ sư Phan Toàn Châu chấp chưởng tại Paris.

Phái Nam Hải: do võ sư Nghiêm An Thạch sáng lập tại Pháp khi sang Pháp năm 1983. Là hệ phái hỗn hợp Lam Sơn, Bạch Hạc quyền, Thiếu Lâm (võ) và Thiếu Lâm Hồng gia.

Phái Kỳ Lân Chi Minh hiện do võ sư Trần Bá Đức, đệ tử của Nguyễn Trung Hòa, làm chưởng môn.

Phái Long Hải: do võ sư Trần Giác sáng lập. Chương trình tập chú trọng đặc biệt kỹ thuật khinh công và võ cổ truyền Việt Nam, hiện phát triển tại La Rochelle.

Văn Võ Đạo: VAN VO DAO là một môn phái Võ Thuật Việt Nam.(Thể hiện sự hòa hợp Văn học, Võ học và Đạo đức). Chưởng môn: võ sư Kinh Chu.

Phái Hòa Long: do đại võ sư Vĩnh Long, chủ tịch Hội Võ thuật Việt Nam, sáng lập và giảng dạy tại Paris.

Việt Vũ Đạo: chú trọng đặc biệt những triết lý võ học cổ truyền Việt Nam. Thể hiện sự hòa hợp truyền thống và hiện đại, tinh thần và thể chất, nghệ thuật và thể thao. Việt Vũ đạo do võ sư Nguyễn Công Tốt sáng lập. Đã nhiều lần đưa các võ sư của võ phái, trong đó có nhiều người Pháp, về Việt Nam giao lưu với các võ phái trong nước trong một số chương trình từ thiện, biểu diễn do Sổ tay võ thuật đứng ra tổ chức.

Quán Khí Đạo (Qwankido): do võ sư Võ Xuân Tòng sáng lập, hiện đang thịnh hành ở Pháp.

Võ Đạo Việt Nam: Do Chu Tấn Cường sáng lập, hiện thịnh hành ở Đức.

Chia sẻ ngay:

Facebook
Twitter
LinkedIn